Giấc Mộng Từ Lâm
Nhất Linh
Tôi vừa ở Sở về, nghĩ đến thân mình lầm than mà buồn tình thế sự. Hai
buổi đi về công việc càng làm càng thấy chán nản, đời mình thật là lạt
lẽo vô cùng, lắm lúc muốn ẩn thân một nơi thôn dã, đối với đời không có
tiếng tăm gì là đủ; nhà giầu, có công việc làm đây không chút gì bổ ích
cho ai, ra luồn vào cúi mà vẫn không sao rút ra được.
Đương
băn khoăn thời thấy một người đi vào trông hơi quen quen, đứng dậy nhìn
kỹ thời té ra anh Trần Lưu, trước cùng học với tôi trường Luật. Năm nọ
ăn mặc tây, bây giờ trông lạ hẳn đi: mình mặc cái áo the thâm, đầu đội
nón dứa, tay xách cái khăn gói to như người ở phương xa đến, thấy tôi
thì tươi cười mà cúi chào, chứ không bắt tay nhau như trước nữa.
Xưa
nay tôi vẫn phục anh Trần Lưu là người trí: anh Lưu học cùng với tôi
trong trường Luật, đến năm thứ hai, thời bỏ vì hai thân anh qua đời cả.
Hôm về quê, anh có than vãn với tôi, không biết cuộc đời của anh sau này
sẽ xoay ra làm sao:
- Tôi bây giờ một
thân một bóng, về quê là để thăm chút phần mộ của hai thân tôi, rồi sau
đây non nước bốn phương biết đâu là quê hương xứ sở, anh dẫu có nhớ đến
tôi cũng không biết đâu mà tìm tôi nữa. Tôi định bây giờ đi khắp các
vùng nhà quê, lẫn vào đám làm ăn, vừa để học vừa để dạy cho họ và xem
xét dân tình, ăn mặc thời quần nâu áo nâu đi đất, đánh cái nón rách vừa
đi vừa kiếm ăn, anh nghĩ sao?
Tôi khuyên
anh cứ chịu khó, tuy đi như thế chưa chắc ăn thua gì song có ngày sẽ nẩy
ra một cái ý kiến hay, nói xong anh từ biệt. Thế là từ độ ấy tôi không
thấy tin tức anh đâu cả. Năm sau tôi được bổ tham biện phủ thống sứ mà
cũng không lần nào gặp anh nữa.
Hôm nay
tình cờ anh đến, vui mừng quá, thấy anh ăn mặc thế cũng không lấy làm
lạ, nhận ra ngay. Anh Trần vào, vừa cười vừa bảo tôi rằng:
- Anh còn nhớ tôi ư, tôi ăn mặc thế này, thật khác xưa lắm nhỉ?
Tôi bảo pha nước uống và hỏi chuyện:
-
Tôi ở đây đi làm hai buổi buồn quá, thấy anh đến mà mừng, muốn hỏi anh
trong hai năm nay anh ra làm sao và anh kể cho ít câu chuyện có cái
hương vị nhà quê thời thích quá.
Bạn tôi nói đã lâu mới lên Hà Nội, muốn đi xem cảnh tượng và quan sát, mua sách vở, tối về thư thả sẽ nói.
Đêm ấy trăng cao mà sáng, chúng tôi bắc cái chõng ra nằm ngoài sân. Bạn tôi nói:
-
Trước khi tôi nói cho anh biết những công việc của tôi trong hai năm
nay, tôi hãy xin anh đừng vội trách tôi, mà tôi cũng không có gì đáng
trách. Anh cũng biết cái thảnh thơi trong lòng là ít người có, và nếu
bao giờ cũng giữ được thảnh thơi, thời cứ như thế đời người ta sống cũng
đã dễ chịu và chính đính lắm rồi. Anh đừng cho tôi là một người có tài
cán làm những việc ích quốc lợi dân, tôi không dám mong thế, có khi tôi
muốn làm mà không làm được, tôi chỉ như một người thường khác mà thôi.
Thân tôi không phải chỉ có hiện tại thôi đâu, tôi chính là ý muốn của
ông cha tôi từ mấy đời trước mà trong óc tôi còn sót lại. Tôi cứ thật
thà mà ngỏ lòng tôi cho anh biết, anh thương hay anh giận, anh trách hay
anh khen tôi cũng thế, mà ai bình phẩm tôi thế nào, tôi cũng không cần.
Tôi
bỏ học được mấy ngày thời thu xếp về quê thăm mộ thầy đẻ tôi, hôm sau
ăn mặc quần nâu áo nâu, đi thẳng. Trong một năm trời đi được gần khắp
trung châu, mới đầu về Hải Dương, xuống Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình,
vòng lên Hà Đông, Bắc Ninh, có khi một mình khăn gói lang thang, có khi
đi lẫn vào bọn thợ, cũng làm lụng như họ, vất vả khổ sở quá, nói ra
không thể nào tin được.
Có khi ngủ ở giữa
cánh đồng, có khi ốm mà không ai chăm nom, song cái đó không làm tôi ngã
chí. Tôi học cũng được nhiều và kiếm ăn cũng đủ tiêu dùng, tuy mồ hôi
nước mắt mà thảnh thơi không lụy ai. Thỉnh thoảng thấy cảnh đẹp, trời
chiều man mác, điếm cỏ cầu sương mà tự nhiên bật miệng ngâm lên câu thơ
chữ tây, lại vội vàng nhìn quanh xem có ai nghe thấy không? Về sau phải
tập luyện cho quen, bây giờ thật là An Nam rồi. Còn về phần dạy cho
người khác thời tôi ngỡ không biết có bổ ích gì không, mà bổ ích thế nào
được. Tôi cứ ngờ như thế mãi, thành ra ý tưởng tôi đổi khác đi mà tôi
không biết, cái tính tình vốn nặng hơn lý lẽ nhiều, vùng nào phong cảnh
tiêu điều, thời tôi hay lánh đi, chỉ tìm những nơi nào có đồi, có sông,
dân phong thuần hậu thời hay lẩn quất ở lại lâu.
Bây
giờ đã đến cái thời kỳ tôi hơi ra ngoài đời mà đến gần cảnh vật rồi đó,
tôi mới biết rằng tôi chưa từng yêu gì hơn yêu cảnh thiên nhiên, lắm
khi có thể lấy đấy làm cái vui ở đời, khuây khỏa được lắm nỗi đắng cay
sầu thảm: có khi tôi ngắm cảnh mà quên cả mọi nỗi gian truân, quên cả
thế sự, tưởng có thể bỏ cả vinh hoa phú quí để được hưởng một cái thú
cỏn con với cây cỏ. ánh sáng hơi thu, gió lạnh, những lúc mùa nọ thay
sang mùa kia thường đem cho tôi lắm cái cảm giác êm đềm man mác, tôi là
người khác rồi, cái nguyên nhân ấy muốn tách bạch ra thời phải người nào
giỏi về tâm lý học lắm mới làm nổi.
Tôi
đương mang tấm lòng như thế, thời đến một nơi gọi là Từ Lâm; xa xa toàn
là núi, ngọn nọ ngọn kia không dứt, sắc núi màu lam, buổi sáng buổi
chiều mây bay sương phủ. Từ Lâm là một cái làng nhỏ ở chân đồi, vẻ đặc
sắc nhất là tỉnh, có con sông con, sắc nước trong xanh chảy từ từ trong
lòng cát trắng. Mảnh đất đó, đối với tôi là khách qua chơi một ngày, sao
có liên cảm sâu xa như thế? Tuy không phải là nơi danh thắng, non không
cao, nước không sâu,nhưng có vẻ đậm đà, điều độ, ân ái, dễ xiêu người.
Tôi không uý phục, tôi không say đắm, nhưng tôi dễ nhận, dễ yêu như một
nơi quê hương xứ sở vậy, lòng tôi lúc đó bâng khuâng, không nỡ rời đi
nơi khác, định chỉ kiếm việc gì ở đấy để lưu liên lại ít lâu.
Tôi
muốn vứt hết những ý nghĩ băn khoăn phiền phức của đời quá ư văn minh
này, cố giữ trong lòng được thảnh thơi mà yên thân ở đấy. Cái lòng tôi
yêu cảnh thiên nhiên thật đã tới đến cực điểm.
Tôi
để ý đến dân tình thời thấy phong tục rất hay, rất thanh tú, đúng với
óc tôi mơ tưởng bấy lâu. Tôi có xem xét cho kỹ lưỡng thời thấy mình biết
thêm được nhiều điều đáng cho vào quyển sách sau này. Nhưng tôi lại tự
hỏi: thời phong tục làng ấy hay, nhưng hay ở thời này để làm gì mới được
chứ? Có phải chỉ là để so sánh và lấy tiếng khen của người đời sau đâu?
Điều đó tôi chưa giải quyết, chỉ riêng phần tôi bấy lâu chịu nỗi phất
phơ, đến chốn đó có cái khí vị thanh nhàn, đời người đáng sống, đáng tôn
trọng lắm. Nhưng họ có biết thế không? Nếu họ không biết thời cái mục
đích của tôi đỏ đen hết cả. Đến lúc tôi tìm thấy là lúc tôi lại muốn phá
đi. Tôi thành ra hoài nghi, nhưng tự an ủi mình rằng: đời ta đáng sống,
ta vui lòng mà sống là nhờ có một cái tuyệt đích, là tu trường là hay,
cố công đeo đuổi cho suốt đời. Sự run rủi đã đưa ta đến chốn này, thời
ta cứ tĩnh tâm xem xét phong tục rồi làm thành sách mà giúp đời. Ta
cứ yên tâm mà theo cái đường ta muốn đi, thời đời ta mới có nghĩa lý
đôi chút, ta tin ở đấy thời ta sống mới có phần đầy đặn hơn.
Một
hôm tôi ở dưới làng lên đồi chơi, đường đi men sườn đồi, thấy có cái
vườn dâu cành lơ thơ như bức mành hồng lấm tấm lá xanh. Giữa vườn có nóc
nhà lá; theo cái ngõ con đi vào thời thấy sáng sủa phong quang như nhà
một người ẩn sĩ.
Hôm ấy về mùa đông mà
trời nắng, gió thổi lá dâu phất phới, lòng tôi nhẹ nhàng, vui vẻ làm
sao! Cái vui như chan chứa trong tâm can tưởng không bao giờ có thể hết
vui được nữa. Vừa vào đến sân thời tôi
đứng ngẩn người ra: một cô con gái trạc độ mười sáu, mười bảy đương ngồi
quay tơ ngoài hiên, thấy tôi vào đưa mắt trông lên. Tôi chưa từng thấy
người nào đẹp đến thế, bâng khuâng như mình lạc vào cảnh tiên. Nàng thấy
tôi vào, không biết tại sao đứng dậy, tấm áo dịu dàng, mắt hoa ngơ ngẩn
mà nhìn tôi: nàng nhìn tôi rồi lại nhìn quần áo, tôi mới sực nhớ ra
mình ăn mặc như người thợ, cái tinh hoa ẩn vào trong sao lại cảm được
nàng, làm sao nàng nhìn tôi mà lại hình như biết là tôi được. Tôi lấy
làm ngượng, cái cử chỉ không được thật, như tỏ ra mình là người thế nào
mà nàng đã biết hết. Nàng đột nhiên hỏi:
- Cậu vào đây muốn hỏi ai?
Tôi làm ra bộ ngơ ngẩn mà nói:
- Thưa cô, tôi làm ở trên đồi, xuống nhờ cô bát nước mưa uống đỡ khát.
Nàng nhìn tôi một lúc lâu, hai con mắt trông như ngạc nhiên muốn hỏi, rồi nói:
- Trời này uống nước mưa thời lạnh chết, để tôi vào xem có nước chè nóng, thời tôi cho một bát.
Tôi uống xong ngần ngừ không muốn đi ra, thấy nàng lại sắp ngồi vào quay tơ, liền nói:
- Cô cứ quay tơ đi cho tôi đứng xem học lấy cách thức thế nào.
-
Mỗi người một việc, cái bác này người lạ quá, uống nước xong thời lên
đồi mà làm việc lại còn ngần ngừ đứng lại, quay tơ thời có gì lạ mà xem.Nàng nói thế là có ý đuổi, tôi cứ mê mẩn không đi. Nàng thấy tôi kỳ khôi lên tiếng gọi người nhà:
- Thầy ơi, có người thợ lôi thôi quá người ta muốn hỏi thầy đấy.
Nhà trên một ông cụ đi ra trạc ngoại năm mươi tuổi, râu đã lấm tấm bạc, vừa đi vừa nói:
- à, có phải bác phó Nghi đó không? Sao lên chậm thế?
Nàng nhìn lại tôi, thấy tôi vẫn đứng ngậm ngùi với cái guồng tơ lấy làm lạ, liền nói:
- Thưa thầy cái người nào ấy, không phải bác phó Nghi đâu.
Ông
cụ đến thì tôi vái chào, ông cụ không trả lời, mắt đăm đăm vào tôi như
nhìn một vật gì lạ, rồi bỗng như nhớ ra, giơ hai tay lên mà nói:
- ... Ông giáo Lưu.
Lúc bấy giờ cô bé đến gần cũng giương hai con mắt mà nhìn tôi, rồi lại nhìn ông cụ, con tơ nàng cầm ở tay rời ra rơi xuống đất. Tôi
thốt nhiên nghĩ đến tứ cố vô thân, người trong nước như thờ ơ lạnh
nhạt, bấy lâu gian truân khổ sở mà không ích lợi cho ai, nên không thiết
gì nữa, muốn ghen với nghìn người khác được sung sướng hơn mình, liền
ngả nón mà nói một câu, một câu ấy mà cuộc đời tôi xoay hẳn đi; bấy lâu
vì xã hội, vì danh giá làm cho mình không phải là mình, nay đến trước
cảnh thiên nhiên bao nhiêu cái phụ thuộc xưa kia tô tạo nên tôi không có
nữa.
- Vâng, thưa cụ chính tôi đây. Rồi
kể lại từ lúc thôi dạy học, vào trường Luật, cha mẹ qua đời, ý muốn làm
những gì, tại sao lại ăn mặc thế này và tình cờ đến đây được. Cả nàng
cũng ngồi nghe rồi cũng nói:
- Thảo nào mới đầu tôi trông quen quen, hơi quen thôi.
Tôi cũng hơi mỉm cười thôi mà nói:
- Trước tôi đi dạy học ở trọ nhà cụ thời cô em còn bé. Về sau có một hôm tôi ghé vào thăm cụ, thời họ nói đã dọn cả về quê rồi.
Ông cụ nói:
-
Nhà quê tôi đây, người dưới làng Từ Lâm gần hết là người trong họ tôi
cả. Tôi cũng có nhà dưới làng, trên này chỉ là chỗ ở cho mát mà thôi.
Bây giờ ông đã đến đây, đem lòng yêu thương phong cảnh đất này thời cứ ở
đây với tôi mà làm sách. Vả ông không có ai là họ hàng nữa, thời ở đâu
chả là quê hương. Dưới làng Từ Lâm có cái trường mới mở mà chưa có thầy
giáo, để tôi nói cho họ biết ông là ai, rồi ông dạy học ở đấy, xem xét
phong tục cho tiện.
Anh ạ, thế là từ hôm
ấy, ngày ngày hai buổi xuống đồi dạy học; dân làng Từ Lâm thật là thuần
hậu, càng ở lâu càng mến mà họ cũng có ý mến tôi, học trò cũng khá đông.
Những lúc tan học về, trèo lên đồi, đi qua những vườn chè đất ghồ ghề,
tuy vất vả mà cái vui trong lòng thật là vô cùng. Tôi hình như lúc nào
cũng háo hức muốn làm hay cho người khác, ở chỗ thiên nhiên này, cái
lòng tôi mới có thể nẩy nở ra được. Tự độ ấy mà tôi nghĩ ra một cái ý
rất hay, chốc nữa sẽ nói anh nghe.
Tôi ở
một gian đầu, nhà cũng khá rộng, sạch sẽ và sáng sủa, khi đi dạy học về
lại ngồi vào bàn viết lách. Sách vở mới đầu chưa có gì, về sau tôi có
tiền gửi về Hà Nội mua, bây giờ cái thư viện cũng kha khá.
Cửa sổ, chỗ
cái giường tôi nằm thời trông xuống dưới cánh đồng, xa xa dẫy núi mấy
chòm cao, cây xanh trùm đến ngọn, làn khói như sợi tơ lên nền khơi. Dòng
sông uốn quanh chẩy lại, sắc trong trong có mãi không cùng. Đồng lúa
xanh kéo đến tận chân đồi, cô con gái áo nâu yếm đào lên núi lấy sơn,
con ngựa rong ruổi xuống dòng uống nước. Nét bút các nhà cổ danh họa
cũng tài tình mà phong phú thật; nếu muốn lấy cảnh trời đất làm vui ở
đời thời cái buồng nhỏ ấy cũng là giang sơn cho mình được. Ông cụ ở nhà
ngoài, còn người con gái thời có khi lên trên này, có khi xuống dưới
làng với bà cụ.
Những ngày chủ nhật thứ
năm, khi nào viết nhiều quá mỏi tay, nghĩ quá nóng đầu, thời tôi thường
lên đồi chơi vẽ cảnh. Có khi gặp nàng đương hái chè, lần đến nói chuyện
làm ăn, chuyện thật thà mà ngây ngô. Gió đưa quần áo phấp phới, trông
nàng đẹp quá, không sao không cảm được. Có khi tôi đứng vẽ cả nàng nữa.
Nàng quay mặt lại thấy tôi, có ý ngượng, song xem ý cũng muốn để tôi vẽ,
thấy tôi đến thì chít lại khăn vuông cho ngay ngắn, buộc lại thắt lưng
cho gọn gàng. Tôi vẽ xong, nàng táo bạo chạy lại nhìn vào tờ giấy rồi
nói:
- Trông giống đấy nhưng sao lại thiếu mất một tay. Tôi
cười, nàng cũng cười, gió trên đồi thổi mạnh; từ mảnh trời sắc núi, cho
đến ngọn cỏ, dáng người như hòa hợp lại với nhau, điều độ, nhịp nhàng
như khúc nhạc Quân thiên. Dưới chân, bờ
ruộng, kẻ ngang kẻ dọc trông như bàn cờ, mỗi chỗ mỗi khác, công việc
đồng áng thong dong, tiếng gà gáy chó sủa văng vẳng gió đưa lên đồi làm
cho chúng tôi quên bẵng mình là người thời buổi nay, ở lùi lại thời hồng
hoang thái cổ. Tôi giảng cho nàng nghe về cái vẻ đẹp của trời đất, bảo
nàng chỗ tôi với nàng đứng đây là chỗ trung tâm của mọi sự hòa hợp trên
đời, lấy cái vẻ đẹp bàng bạc trong non sông mà chung đúc nên.
Một hôm tôi đi dạy học về thấy nàng đứng trước tờ tranh tôi vẽ nàng hôm nọ, tôi vào mà nàng không biết. Tôi nói:
- Thôi đẹp lắm rồi, ngắm mãi!
Nàng
quay lại lấy làm thẹn, má đỏ hồng. Thời kỳ này là thời kỳ mà nàng đã
bảo tôi để ý đến nàng, mà nàng cũng đã muốn tôi rồi đấy: lẽ ấy là lẽ
thường, nàng là người con gái mới, gặp tôi còn mơ ước gì hơn nữa, mà tôi
cũng định tâm lấy nàng thật. Một buổi
chiều tôi đi một mình lên rừng chơi, lắm chỗ cỏ mọc cao đầu, cây cối rậm
rạp, tôi lạc lối cứ đi mãi, gặp suối thời kéo gỗ trên rừng xuống bắc
cầu mà qua. Trời đã tối vẫn lẩn quẩn không thấy đường ra. Nửa đêm mới về
đến nhà, thấy nàng vẫn còn chong đèn thức mà đợi tôi, như có vẻ lo sợ,
tôi hỏi thì nói là ngồi khâu nốt cái áo cho xong. Nhưng tôi cũng hiểu
lòng nàng thế nào rồi, mà lòng tôi cũng có khác chi đâu. Những lúc đi
dạy học về, đợi nàng dưới làng lên, trời đông sao mà quạnh hiu như không
có một ai nữa, đến lúc thấy nàng qua vườn dâu, thấy nàng đi vào mặt
tươi như hoa và lạnh như sương, thời lòng tôi phấp phới như bướm trên
hoa. Có khi tôi theo nàng lên đồi làm lắm việc trẻ con quá, không ai
nghi ngờ gì cả, đồi cao cây phủ ai biết đó là đâu.
Một hôm tôi đột nhiên sắm sửa nói với ông cụ xin đi:
-
Bấy lâu ở đây thật cảm ơn cụ quá không biết lấy gì mà đền ơn được. Bây
giờ công việc tôi ở đây đã xong cả rồi, phải dời đi nơi khác. Vậy xin từ
biệt cụ, mà đi phen này không biết có còn gặp được cụ nữa không.
Nàng
cũng có đấy, tôi nói xong trông lên, thấy nàng đứng đằng sau ông cụ mà
nhìn tôi, làn thu ba, đắm đuối như hỏi như han như oán trách vô ngần.
Tôi nói chuyện với ông cụ một lúc lâu thời không thấy nàng đứng đấy nữa.
Tôi nhìn ra cửa sổ chỗ con đường đi xuống dưới làng, cũng không thấy
bóng ai, lên đồi chỗ chúng tôi vẫn thường nói chuyện với nhau thời thấy
nàng có đấy đương cúi mặt mà khóc nức nở. Tôi đến gần mà bảo nàng rằng:
-
Sao cô vội khóc thế, để tôi nói cho nghe đã, không thế thời bao giờ
chúng ta có thể lấy nhau được, thế nào tôi cũng phải đi độ nửa năm cho
ai cũng quên tôi đi, rồi sau mượn mối đến hỏi thời tránh được tiếng
người ngoài. Trong nửa năm ấy tôi lại khăn gói lang thang hồ thỉ bốn
phương, cô đừng tơ tưởng đến tôi nữa, nên cầu cho tôi có thể xa cô càng
lâu bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bấy giờ
nàng mới hiểu, gạt nước mắt mà nhìn tôi như trách đã để nàng sa mấy
giọt nước mắt không đâu.
Trời đã lờ mờ tối, về phương xa trên mấy cái
núi cao họ đốt rừng, trời đất bao la, chúng tôi cầm lấy tay nhau sung
sướng quá, không thích sống gì nữa. Hôm
sau tôi từ giã ông cụ và Từ Nương vác khăn gói ra đi. Trong một năm trời
nay đây mai đó, non nước lắm khi thấy lạnh lẽo, xa lạ mà buồn tênh quá.
Còn nàng thời ở lại chốn vườn xưa, con bươm bướm cái hoa đậu, lần lần
tháng trọn ngày qua xinh đẹp thêm ra, không lớn lên.Tôi
đi đến đâu cũng không thấy được như chốn cũ nữa, người đời sống nhỏ
nhen, đê tiện quá, không cái gì có thể làm cho mình vui lòng đôi chút.
Tôi trở về Từ Lâm thời lòng đã tê tái, lúc trông thấy cái yêu quí xa xa,
bao nhiêu nỗi buồn như giũ sạch, lòng thấy nhẹ nhàng hăng hái, rất tin
về công việc mình làm, không có những cái ý nghĩ băn khoăn nó xô đẩy
nữa. Tôi lại men sườn đồi như năm nọ, đến khi trông thấy nàng đứng trong
sân mà nàng cũng trông thấy tôi thời dẫu cho long trời lở đất, chúng
tôi cũng không nỡ rời nhau ra nữa. Ông cụ
bằng lòng cho chúng tôi lấy nhau và để riêng cái nhà ấy cho hai vợ
chồng ở. Tôi đi dạy học, làm sách, nàng ở nhà dệt vải, ươm tơ, ngày
tháng như thoi, thời gian bát ngát, chúng tôi cũng không mong mỏi gì
nữa. Hôm nọ cần mấy quyển sách và lâu
ngày cũng nhớ anh em bạn cũ, nên mới dò lên đây đấy. Thôi bây giờ tôi đã
giầu lắm rồi anh ạ, mà tôi còn muốn làm giầu nữa. Tôi làm sách mà nói
thời chắc không ăn thua gì, chỉ có một cách thực hành ngay là hơn; anh
chắc đã biết, không còn mong gì ở quan rồi, cũng không thể mong ai được
nữa. Vậy bây giờ tôi định có nhiều tiền tậu một cái đồn điền độ mấy
nghìn mẫu vừa đồi vừa ruộng; mở đồn điền không phải là cứ vụ gặt đến,
nhảy ôtô lên thu thóc, thu tiền đâu, cũng không phải là chỉ nhìn cây cà
phê ra quả đâu, cốt nhất là giáo hóa cho dân. Tuy không được lan rộng
nhưng thấy kết quả hiển nhiên, làm cho mấy nghìn con người được sung
sướng vì mình, thời chết đi tưởng cũng hả dạ lắm, đời mình không phải là
không có cho ai. Tôi lại đi tìm những người nào đồng chí, phải đồng chí
lắm mới được rồi thì mời về thực, hoặc ai bận bịu thời giúp cho họ
thoát ly, về ở với nhau, lập thành cái làng con ở chân đồi.
Nhà ở thời
toàn là nhà gỗ, nhưng cao ráo sáng sủa, chung quanh có vườn rộng trồng
cây có quả. Đồ đạc đơn sơ mà thật nhã, thiệt hợp với sự cần dùng, đồ mỹ
thuật có ích nhưng rất quí; một vài bức cổ họa mầu dịu, một vài lọ dành
để cắm hoa, bao nhiêu cái xa hoa phiền phức thời bỏ đi hết. Chung quanh
nhà nuôi chim, nuôi ong cho vui. Ngoài việc làm ruộng dựng một cái nhà
tằm, trồng mươi mẫu dâu, dệt vài khung cửi, để đám phụ nữ săn sóc về
việc tằm tang, canh cửi để lấy lụa trong nhà dùng. Làng có một cái nhà
chung để bàn việc trong đồn điền, có một cái thư viện gồm cả sách Tây,
sách Nho chọn lọc kỹ.
Người thời làm cho
trong đồn điền có nhiều hoa lợi cho dân khỏi đói, người dạy về công
nghệ, người thì dạy học, cốt làm cho họ biết ăn ở với nhau cho hòa hợp,
biết yêu cảnh thiên nhiên, biết sống ở đời là vui, mà ở đời thường cũng
chỉ có thế mà thôi, còn ngoài ra là hão cả.
Tôi
tưởng tượng ra như một nơi mà người nào cũng ăn ở hòa hợp với nhau
thương yêu nhau lắm, người nào cũng lấy sống ở đời làm vui, không có
thiếu thốn cái gì để phải khổ sở, mà cũng không có cái gì nhiều quá để
mê đắm lòng mình, cái gì cũng điều độ, nhịp nhàng như khúc âm nhạc để ca
tụng ông trời kia đã cho lòng mình được trong sạch, giản dị, mà lúc nào
cũng đầy những gió trăng hoa mộng.
Cũng vì cái xã hội ngày nay không
hợp với tôi, tôi không có thể nào theo người khác được nên mới có cái ý
tưởng kỳ khôi ấy. Tôi chán hết cả. Tôi không có cái hăng hái như người
khác mơ tưởng một cái văn minh mà ta vẫn thường cho là văn minh, tôi chỉ
muốn trở lại thời cổ sơ, cố đạt được cái mộng các bực hiền triết ta
ngày trước, có thế thôi. Tôi đã biết từ khi hãy còn trẻ rằng rồi sau thế
nào tôi cũng thế này, nên từ bé cho đến khi hơn hai mươi tuổi đầu, bao
nhiêu những việc tôi làm, những công gắng sức của tôi là theo thói người
đời mà làm đấy thôi, chứ thật ra tôi không tiện ở đây, cho là tạm thời
hết cả. Vì thế mà lúc nào tôi cũng buồn, buồn rằng cái óc như người khác
mà không sao sống như người khác được. Tôi
tưởng thế mới là văn minh; chứ biết đo hết cả vũ trụ, biết thấu hết mọi
cái huyền biến vạn vật, biết hết cả mà rút lại ăn ở với nhau không nên
thân, lấy cái óc mà nghĩ cách giữ lẫn nhau, thời văn minh làm gì, đưa
nhau đến đâu mới được chứ? Hoán cải cái văn minh lại mà thôi.
Bạn
tôi nói xong, lặng yên mà nhìn lên trăng cao tít trên trời, nét mặt
thanh thản như chan chứa cái vui, tôi nhìn anh Lưu mà tôi thương hại cho
tôi. Tôi nói với bạn rằng:
- Anh là
người sung sướng vì anh sớm biết theo cái chí hướng của anh, không cần
thiên hạ, còn tôi ngày ngày hai buổi đi về, tôi có phải là tôi đâu, cái
đời tôi thật là khốn nạn quá. Không biết sau đây, anh đạt được mục đích,
có để cho tôi về nương thân ở đấy không, hay cái lòng tôi còn tục quá,
còn hám tiền của, danh lợi quá, vẫn ưa những cái phiền phức, xấu xa,
chưa biết yêu cảnh thiên nhiên nên không đáng là người đồng chí với anh
chăng. Nếu thế thời từ nay tôi xin luyện hồn trước đi, còn về đường vật
chất chắc anh làm cho tôi thoát ly ra dễ lắm. Nhưng tôi giúp gì anh
được, các công việc tôi học mấy năm trời vứt đi cả, lệ luật mà tôi nhồi
vào óc bấy lâu dùng ở cái xã hội nhân công tổ tạo này thời nay còn được,
chứ nó sống sượng lắm nên quẳng nó đi cho nhẹ óc, trước kia tôi cũng có
cái ý nghĩ như anh, nhưng còn mập mờ chưa rõ, là vì sợ người khác, sợ
người khác họ chê là tại mình dốt, mình yếu nên không chen được với họ
nên mới đâm ra nghĩ như thế. Vả đời sống là sống thế này rồi, ai ai cũng
công nhận như thế, nay trái hẳn lại, mấy người đã có cái gan ấy!
Sáng hôm sau, bạn tôi nói xin về, tôi cũng không giữ lại. Tôi định tiễn tiền tầu thời bạn trả lại không lấy mà bảo rằng:
- Hôm nào thư thả mời anh lên chơi với tôi cho khuây khỏa nhưng chắc anh bận lắm thì phải, chỉ ngày lễ mới đi được thôi. Mẹ cháu ở nhà năm nay tơ tốt có dệt được mấy tấm lụa đẹp, hôm nào anh lên sẽ xin tặng gọi là một chút quà ở nơi sơn trại.
Sáng hôm sau, bạn tôi nói xin về, tôi cũng không giữ lại. Tôi định tiễn tiền tầu thời bạn trả lại không lấy mà bảo rằng:
- Hôm nào thư thả mời anh lên chơi với tôi cho khuây khỏa nhưng chắc anh bận lắm thì phải, chỉ ngày lễ mới đi được thôi. Mẹ cháu ở nhà năm nay tơ tốt có dệt được mấy tấm lụa đẹp, hôm nào anh lên sẽ xin tặng gọi là một chút quà ở nơi sơn trại.
Bạn tôi về Từ
Lâm, còn tôi lủi thủi vác ô vào Sở. Nghĩ mà cũng phải: ở đời sống là thế
này rồi, ai cũng công nhận như thế, nay trái hẳn lại, mấy người đã có
cái gan ấy.
Rút từ tập truyện ngắn Người quay tơ, Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1927